28/08/2025 - 15/09/2025
Trung tâm Triển lãm Việt Nam - VEC, Đông Hội, Đông Anh, Hà Nội, Việt Nam
28/08/2025 - 15/09/2025
Trung tâm Triển lãm Việt Nam - VEC, Đông Hội, Đông Anh, Hà Nội, Việt Nam
1975-1986: Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng lại đất nước, chiến đấu bảo vệ biên giới, lãnh thổ và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
1975-1986: Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng lại đất nước, chiến đấu bảo vệ biên giới, lãnh thổ và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
1986 đến nay: Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế xây dựng Việt Nam phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, tiến bước vào kỷ nguyên phát triển thịnh vượng của dân tộc.
1986 đến nay: Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế xây dựng Việt Nam phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, tiến bước vào kỷ nguyên phát triển thịnh vượng của dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng
Phòng trải nghiệm đa giác quan
Phòng trải nghiệm đa giác quan
Với công nghệ AR (Augmented reality) bạn có thể được trải nghiệm
1/1/1911 - 1924: Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành và hành trình tìm đường cứu nước
Ngày 5/6/1911, trên con tàu Amiral Latouche Tréville, Nguyễn Tất Thành với cái tên Văn Ba, rời Bến Nhà Rồng bắt đầu hành trình tìm con đường cứu nước.
Bến Nhà Rồng (Sài Gòn) đầu thế kỷ XX - Nơi bắt đầu hành trình tìm đường cứu nước của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành.
Khách sạn Carlton ở Luân Đôn (Anh) - nơi Nguyễn Tất Thành làm việc trong thời gian sống ở nước Anh những năm 1914-1917.
Thẻ căn cước của Nguyễn Ái Quốc ở Pari (Pháp) tháng
9/1919.
Đầu năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một đảng tiến bộ
lúc đó thường lên tiếng chống lại chính sách áp bức, bóc lột của
thực dân Pháp ở các thuộc địa theo hướng nhân đạo hóa các chính
sách đó.
Bản Yêu sách của nhân dân An Nam do Nguyễn Ái Quốc ký tên thay mặt nhóm những người yêu nước An Nam gửi Hội nghị quốc tế về hòa bình tại Vécxây (Pháp), năm 1919.
Báo Le Paria (Người cùng khổ) – cơ quan ngôn luận của Hội Liên hiệp thuộc địa do Nguyễn Ái Quốc làm chủ bút, đăng nhiều bài và tranh châm biếm tố cáo tội ác của bọn thực dân, kêu gọi các dân tộc thuộc địa đoàn kết đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
Chân dung Nguyễn Ái Quốc, năm 1920.
Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội toàn quốc lần thứ
XVIII Đảng Xã hội Pháp (thành phố Tua, Pháp) năm
1920.
Tháng 12/1920, Người tham dự Đại hội XVIII của Đảng Xã hội Pháp
và bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản),
trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, là
người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Ngôi nhà số 9 Ngõ Công – Poanh (Compoint) ở Paris.
Nguyễn Ái Quốc trong thời kỳ hoạt động ở Liên Xô, năm 1923-1924
Thẻ dự Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản của Nguyễn Ái Quốc, năm 1924.
Nguyễn Ái Quốc, Xen Ca-ta-ya-ma, Pra-sôn-ni-cốp và các đại biểu dự Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản, Mat-xco-va, 1924 (Bảo tàng Hồ Chí Minh).
Nguyễn Ái Quốc được quần chúng công kênh trong buổi liên hoan mừng Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản thành công, năm 1924.
1925-1930: Nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị và thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam
Từ tháng 11/1924 đến năm 1927, thời kỳ Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Quảng Châu (Trung Quốc)
Trụ sở Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (ngôi nhà số 13A, đường Văn Minh, Quảng Châu, Trung Quốc).
Nguyễn Ái Quốc giảng bài tại lớp huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc (ảnh chụp tranh)
Sách “Bản án chế độ thực dân Pháp” là một tác phẩm chính
luận của Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên xuất bản ở Pháp, năm
1925.
Tác phẩm tố cáo tội ác của thực dân Pháp và đề ra cho Nhân dân
Việt Nam con đường đấu tranh giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Báo Thanh niên - Cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tờ báo do Nguyễn Ái Quốc sáng lập trong những năm 1925-1927.
Tác phẩm “Đường Kách mệnh” của Nguyễn Ái Quốc, 1927.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì (ảnh chụp tranh). Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị thành lập Đảng tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc). Hội nghị đã thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt và Chương trình tóm tắt của Đảng - Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo năm 1930.
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày 18/2/1930.
1930 - 1945: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đấu tranh giành độc lập
Thông tin cá nhân và ảnh chụp dấu vân tay của Nguyễn Ái Quốc, năm 1931.
Nhà tù Victoria (Hồng Kông) nơi Nguyễn Ái Quốc bị giam
những năm 1931-1933.
Giữa năm 1931, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh bắt giam tại
Trung Quốc với tên gọi Tống Văn Sơ.
Thẻ thông tin về sinh viên Lin (Nguyễn Ái Quốc) viết tại Hội đồng xét tuyển Trường Quốc tế Lênin, ngày 16/9/1934.
Trường Quốc tế Lênin, nơi Nguyễn Ái Quốc đã học tập và
nghiên cứu trong thời gian hoạt động ở Liên Xô.
Những năm 1934 - 1938, Nguyễn Ái Quốc học tập, nghiên cứu và
giảng dạy tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa
tại Mátxcơva (Liên Xô) tiếp tục theo dõi, chỉ đạo phong trào
cách mạng trong nước.
Giấy chứng nhận số 154 cấp cho Lin (Nguyễn Ái Quốc) để tham dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản, năm 1935.
Thư của Anđờrêép - chuyên viên Vụ Cán bộ, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản gửi G.Đimitơrốp - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản về quyết định gửi đồng chí Lin (Nguyễn Ái Quốc) - đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương về Đông Dương tham gia công tác trong Đảng Cộng sản Đông Dương hoặc tham gia kháng Nhật, ngày 8/6/1938.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, ngày 28/1/1941 (ảnh chụp tranh vẽ).
Lán Khuổi Nậm (Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng), nơi
Nguyễn Ái Quốc ở trong những ngày họp Hội nghị lần thứ tám
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 5/1941.
Tháng 5/1941, Người triệu tập Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương Đảng quyết định đường lối cứu nước trong thời kỳ mới,
thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh), tổ chức xây
dựng lực lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách
mạng.
Lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân,
ngày 22/12/1944.
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân là tiền thân của Quân
đội Nhân dân Việt Nam, được thành lập nhằm tiến tới đấu tranh vũ
trang, chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đội
gồm 34 chiến sĩ đầu tiên do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy.
Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa của Nguyễn Ái Quốc, 8/1945.
Bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình
(Hà Nội), ngày 2/9/1945.
Bản Tuyên ngôn nhấn mạnh: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể
dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh
và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) sáng ngày 2/9/1945.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ra mắt sau phiên họp đầu tiên, ngày 3/9/1945.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Việt
Minh lập ra trên cơ sở cải tổ Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam
được bầu tại Đại hội Quốc dân Tân Trào, ngày 16 - 17/8/1945.
1945 - 1954: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng lãnh đạo cả dân tộc kháng chiến, kiến quốc
Ảnh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, 1946.
Thẻ đại biểu Quốc hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 1946.
Ngày 6/1/1946: Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Hà Nội, ngày 2/3/1946.
Ngày 2/3/1946: Tại kỳ họp thứ I Quốc hội khóa I nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, Người được bầu làm Chủ tịch Chính phủ kháng
chiến và nhận nhiệm vụ đứng ra tổ chức Chính phủ mới. Sau đó,
Quốc hội đã thông qua việc thành lập Chính phủ liên hiệp kháng
chiến do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Thuộc địa Pháp M.Mu-tê
ký Tạm ước Việt - Pháp, ngày 14/9/1946.
Hội nghị Phông-ten-nơ-blô không đạt kết quả, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trực tiếp đàm phán và ký kết bản tạm ước thể hiện những
nhân nhượng cuối cùng của Việt Nam, đồng thời kéo dài thời gian
hòa hoãn để nhân dân ta chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến
toàn quốc.
Ngày 3/11/1946: Sau khi thành lập Chính phủ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Lời tuyên bố trước Quốc hội. Chính phủ mới do Người làm Chủ tịch nước (từ 11/1946 đến 9/1955) và kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (từ 11/1946 đến 1947).
Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Hỏi và trả lời” giải thích về kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện của dân tộc, 23/11/1946
Ngày 19/12/1946: Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi
Toàn quốc kháng chiến.
“Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ”.
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, năm 1947.
Đây là một tác phẩm quan trọng về xây dựng Đảng, một tài liệu
học tập của cán bộ để tu dưỡng đạo đức và tác phong làm việc.
Tác phẩm được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết xong tháng 10/1947, bút
danh X.Y.Z.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trao đổi với Ban Thường trực Quốc hội và Hội đồng Chính phủ về kế hoạch phá tan cuộc tấn công của thực dân Pháp lên Việt Bắc, Thu - Đông, năm 1947.
Chỉ thị "Phải phá cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp" của Trung ương ngày 15/10/1947.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với các thành viên Quốc hội và Hội đồng Chính phủ, Việt Bắc, 1948.
Lời kêu gọi Thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 11/6/1948.
Bài viết Dân vận.
Bài viết Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký bút danh X.Y.Z
đăng trên báo Sự thật, số 120, ngày 15/10/1949. Đây có thể coi
là “cương lĩnh dân vận” của Đảng, có giá trị lý luận và thực
tiễn sâu sắc, cần thiết trong mọi giai đoạn cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Kháng chiến Hành chính toàn quốc ở Việt Bắc, năm 1950.
Bác Hồ với các cháu thiếu nhi ở Việt Bắc, 1949.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đường đi công tác ở chiến khu Việt Bắc, 4/1951.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp kiểm tra trận địa trước chiến dịch Biên giới, 1950.
Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng, Việt Bắc, 2/1951.
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày, 1951.
Chánh cương của Đảng Lao động Việt Nam, Báo Nhân dân, số 1/1951.
Hội nghị Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên
Phủ, ngày 6/12/1953.
Nhận thấy trận Điện Biên Phủ là cơ hội đánh tiêu diệt lớn, tạo
chiến thắng vang dội để chấm dứt kháng chiến trường kỳ, Bộ Chính
trị đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Hội nghị Genève về đình chỉ chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Đông Dương, từ ngày 8/5 - 21/7/1954.
Sau 2 tháng rưỡi đàm phán, Hiệp định Genève đã được ký kết. Theo
tinh thần Hiệp định, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành 2 miền
và sẽ thống nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử tự do vào tháng
7/1956.
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi Hội nghị
Genève, ngày 22/7/1954.
Trước âm mưu của Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược thực dân
mới ở miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Cả nước
đồng lòng, muôn người như một, chúng ta nhất định thắng lợi.
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ muôn
năm!”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn huy hiệu cho các chiến sĩ đã chiến đấu và chiến thắng tại Điện Biên Phủ tháng 5/1954.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng cán bộ tăng gia sản xuất trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tham gia văn nghệ trong tháng hữu nghị Việt Trung Xô tại Việt Bắc năm 1954
1954-1969: Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ trong buổi lễ mít-tinh chào mừng của nhân dân Thủ đô tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, ngày 1/1/1955.
Thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ngày 10/9/1955.
Trước nhiệm vụ cách mạng mới của đất nước, Đại hội Mặt trận Dân
tộc Thống nhất toàn quốc họp tại Hà Nội đã quyết định thành lập
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thay thế cho Mặt trận Liên Việt nhằm
"…đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ, đấu tranh đánh bại
đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Hội nghị Trung ương mở rộng lần thứ X (khóa II), tháng
9/1956.
Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, kiêm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 Khóa
II, tháng 11/1958.
Hội nghị do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, bàn về phát triển và
cải tạo kinh tế quốc dân.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 Khóa
II, tháng 1/1959.
Hội nghị do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, bàn về tăng cường đoàn
kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, thực hiện thống
nhất nước nhà.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp 1959,
ngày 1/1/1960.
Hiến pháp khẳng định ý chí và nguyện vọng của nhân dân ta kiên
quyết xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước
nhà.
Lễ khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng Lao động Việt Nam, ngày 5/9/1960.
Đại hội đã họp công khai từ ngày 5 - 10/9/1960. Phát biểu khai
mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đại hội
lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.
Tại Đại hội, Người tiếp tục được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành
Trung ương Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ huy Dàn nhạc Giao hưởng chơi bản nhạc "Kết đoàn” tại đêm Dạ hội ở vườn Bách Thảo (Hà Nội) do Đoàn Thanh niên Lao động tổ chức, tháng 9/1960.
Hội nghị chính trị đặc biệt, ngày 27 -
28/3/1964.
Tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Miền Nam thật
xứng với danh hiệu “Thành đồng của Tổ quốc” và kêu gọi đồng bào
miền Bắc “Mỗi người chúng ta phải làm việc bằng hai để đền đáp
lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đại biểu tổ chức các nước trên thế giới đến Hà Nội dự Hội nghị quốc tế đoàn kết với Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của Mỹ, bảo vệ hòa bình, ngày 30/11/1964.
Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước, ngày
17/7/1966.
Lời kêu gọi nhân dân Việt Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết
chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược đến thắng lợi cuối cùng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh bởi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Anh hùng chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước Hà Nội, 12/1966.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Bộ Chính trị họp
bàn quyết định mở chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy xuân
Mậu Thân, năm 1968.
Thắng lợi to lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân
1968 đã giáng một đòn mạnh mẽ vào ý chí xâm lược của Mỹ, buộc
Tổng thống Johnson phải đơn phương chấm dứt ném bom miền Bắc và
chấp nhận đàm phán hòa bình với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
1. Bộ Chính trị họp quyết định mở đợt Tổng tiến công và nổi
dậy Tết Mậu Thân 1968.
2. Vào lúc 6 giờ 15 phút ngày 31/1/1968, lá cờ của Liên minh các
Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa
bình Việt Nam được kéo lên cột cờ Tòa Tỉnh trưởng Thừa Thiên-Huế
Hồ Chí Minh: Di chúc, bản viết cuối năm 1968. Bút tích.
Hồ Chí Minh: Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, 02/1969. Bút tích.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tham gia Tết trồng cây với nhân dân Vật Lại, Sơn Tây, 16/2/1969.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Lễ kỷ niệm ngày Quốc tế lao động tại Hà Nội, 30/4/1969.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Hà Nội, 22/5/1969.
Lễ ra mắt quốc dân của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam, tháng 6/1969.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời
đã cổ vũ mạnh mẽ nhân dân miền Nam đánh trực tiếp và liên tục
vào âm mưu của Mỹ cố bám giữ chính quyền Sài Gòn, đồng thời giúp
cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có tư cách pháp lý để
tập hợp lực lượng cách mạng “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy
nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Dự thảo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước nhân kỷ niệm 15 năm ngày ký hiệp định Genève 20/7/1969.
Thông cáo đặc biệt của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về việc Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần, Báo Nhân dân, 5/9/1969.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 1969.
Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh tại quảng trường Ba
Đình Hà Nội, 9/9/1969.
Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời trong sự
tiếc thương vô hạn của toàn dân. Trong lễ truy điệu Chủ tịch Hồ
Chí Minh tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước anh linh của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Duẩn đọc năm lời thề son sắt,
nói lên quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực
hiện Di chúc thiêng liêng của Người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi vào cõi bất tử như những anh
hùng vĩ đại nhất trong
lịch sử dân tộc. Mỗi bước đi của nhân dân ta và của Đảng ta đều gắn liền với
cuộc đấu tranh cách mạng vô cùng kiên cường, sáng ngời lý tưởng cao đẹp của
Người. Toàn bộ hoạt động của Người cùng với sự nghiệp của nhân dân ta và của
Đảng ta là một thiên anh hùng ca bất diệt của cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh đi vào lịch sử cách mạng thế giới như là Người
khởi xướng cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa, Người chiến sĩ kiên cường của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Người chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi
cho hòa bình của các dân tộc và đã trở thành danh nhân văn hóa kiệt xuất. Ngày
nay khắp nơi trên thế giới tên tuổi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở nên quen thuộc,
gần gũi và vô cùng kính trọng. Tên tuổi và sự nghiệp của Người đã được trân
trọng ghi vào các bộ đại bách khoa, bộ đại từ điển của danh nhân đại lỗi lạc thế
giới.
Nhân dân ta và loài người tiến bộ đời đời ghi nhớ công lao
và sự nghiệp của
Người, một vĩ nhân đã đi vào trái tim của nhân loại.
Ảnh chân dung Tổng Bí thư Trần Phú Ảnh: BTLSQG
1925: Tham gia Hội Phục Việt (sau đổi tên thành Hội Hưng Nam và Tân Việt Cách mạng Đảng), tổ chức của những trí thức yêu nước.
1925-1926: Tham gia các hoạt động: phong trào đấu tranh đòi thực dân Pháp trả lại tự do cho nhà yêu nước Phan Bội Châu, tổ chức lễ truy điệu Phan Chu Trinh, mở lớp dạy chữ quốc ngữ.
7/1926: Sang Quảng Châu (Trung Quốc) tham gia lớp huấn luyện chính trị khóa 2 do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp giảng dạy và được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
1/1927: Được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cử sang Liên Xô học tại Đại học Phương Đông với bí danh là Lý Quý.
11/1929: Sau khi tốt nghiệp Đại học Phương Đông, đồng chí nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, bí mật lên tàu đi Leningrad (nay là Saint Petersburg) bắt đầu hành trình về nước hoạt động.
Ngôi nhà số 90 phố Thợ Nhuộm nơi đồng chí Trần Phú chắp bút bản dự thảo Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, năm 1930.
10/1930: Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Hương Cảng (Trung Quốc) đã thông qua bản Luận cương Chính trị và bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức, đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng.
18/4/1931: Đồng chí bị địch bắt và giam giữ ở Khám Lớn Sài Gòn.
Ảnh chân dung đồng chí Lê Hồng Phong Ảnh: BTLSQG
1/1924: Cùng đồng chí Phạm Hồng Thái sang Thái Lan, sau đó đi Trung Quốc tìm đường cứu nước, tham gia Tân Việt Thanh niên Đoàn (Tâm Tâm xã).
1924: Học trường quân sự Hoàng Phố, được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dìu dắt.
1925: Gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và dự lớp huấn luyện cán bộ cách mạng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức.
10/2/1926: Gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc.
11/1931: Được phân công trở về nước lãnh đạo việc khôi phục, phát triển tổ chức Đảng.
1932: Tìm cách liên lạc với tổ chức Đảng ở trong nước và xây dựng lại hệ thống tổ chức của Đảng.
6/1932: Bản Chương trình hành động của Đảng do đồng chí tham gia khởi thảo được công bố và được Quốc tế Cộng sản thông qua.
Cuối năm 1934: Dẫn đầu đoàn đại biểu của Đảng dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản tại Moscow (Liên Xô) từ ngày 25/7 đến ngày 21/8/1935. Đại hội đã bầu đồng chí Lê Hồng Phong làm Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản và công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là phân bộ chính thức của Quốc tế Cộng sản. Tháng 3/1935, Đại hội Đảng lần thứ I diễn ra tại Ma Cao đã bầu đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
7/1936: Tại Thượng Hải (Trung Quốc), đồng chí triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương bổ sung Nghị quyết Đại hội lần thứ I.
3/1938: Dự Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, góp phần vào việc thành lập Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông Dương.
22/6/1939: Bị thực dân Pháp bắt lần thứ nhất ở Sài Gòn và bị kết án 6 tháng tù giam và 3 năm quản thúc.
20/1/1940: Bị thực dân Pháp bắt lần thứ 2, giam tại Khám Lớn, Sài Gòn; cuối năm 1940, chúng đày đồng chí ra Côn Đảo.
6/9/1942: Đồng chí hy sinh tại nhà tù Côn Đảo.
Ảnh chân dung đồng chí Hà Huy Tập Ảnh: BTLSQG
Cuối năm 1925: Gia nhập Hội Phục Việt.
Cuối năm 1927, tham gia lập ra Kỳ bộ Việt Nam Cách mạng Đảng ở Nam Kỳ (làm Thư ký của Kỳ bộ).
12/1928: Hà Huy Tập bị mật thám truy bắt. Tổ chức Tân Việt đã tìm cách đưa đồng chí sang Quảng Châu, Trung Quốc, bắt liên lạc với Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
9/1930: Chuyển cho Ban Chấp hành chi bộ Trường đại học Phương Đông hồ sơ gia nhập Đảng Cộng sản (b) Liên Xô.
23/10/1930: Hội nghị toàn thể chi bộ Đảng Cộng sản (b) Liên Xô đã quyết định kết nạp Cunhirkin là đảng viên dự bị. Ngày 25/4/1931, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (b) Liên Xô ký Quyết định số 10444, công nhận đồng chí Cunhirkin là đảng viên dự bị hai năm kể từ ngày 25/4/1931.
1932: Tốt nghiệp Đại học Phương Đông. Ngày 30/4/1932, đồng chí lên đường trở về Tổ quốc. Từ Moscow, đồng chí đi Pháp. Đến Pháp, đồng chí bị nhà chức trách trục xuất ra khỏi nước Pháp với lý do mang thẻ căn cước giả. Cuối tháng 6/1932, đồng chí rời Pháp sang Bỉ, rồi từ Bỉ trở lại Liên Xô.
4/1933: Đồng chí về nước qua đường Trung Quốc.
1934: Tham gia thành lập Ban Chỉ huy ở ngoài của Ðảng (ủy viên, phụ trách tuyên truyền, cổ động, kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Bolshevik - cơ quan lý luận Trung ương của Đảng). Ngày 27/3/1935, Đại hội lần thứ I của Đảng chính thức khai mạc tại Ma Cao (Trung Quốc). Đồng chí Hà Huy Tập và các đồng chí trong Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng đã chủ trì và lãnh đạo toàn bộ quá trình Đại hội.
7/1936: Cùng với Tổng Bí thư Lê Hồng Phong chủ trì Hội nghị Ban Trung ương tại Thượng Hải (Trung Quốc). Hội nghị phân công đồng chí Lê Hồng Phong làm cán bộ dự trữ ở lại nước ngoài; đồng thời để giữ liên lạc với Quốc tế Cộng sản. Đồng chí Hà Huy Tập về nước để tổ chức Ban Trung ương và khôi phục các liên lạc với các tổ chức của Đảng. Đến thời điểm này, đồng chí Hà Huy Tập được coi là Tổng Bí thư của Đảng (từ tháng 7/1936).
12/10/1936: Triệu tập và chủ trì Hội nghị bầu ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, do đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư.
3/1937: Chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở rộng tại Bà Điểm (Gia Định) để thống nhất các tổ chức đảng ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ.
9/1937: Chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở rộng tại Bà Điểm, Hóc Môn (Gia Định) và báo cáo tình hình hoạt động của Đảng từ tháng 8/1936 đến tháng 8/1937.
9/1937: Trung ương Đảng quyết định xuất bản báo Le Peuple. Tổng Bí thư Hà Huy Tập trực tiếp làm Tổng Biên tập.
29-30/3/1938: Chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, tại Bà Điểm, Hóc Môn (Gia Định). Hội nghị đã bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư. Đồng chí Hà Huy Tập tham gia Thường vụ Trung ương.
6/4/1938: Thay mặt Ban Thường vụ Trung ương Đảng viết Báo cáo gửi Ban Chấp ủy Quốc tế Cộng sản về tình hình công tác của Đảng trong 6 tháng (từ tháng 9/1937 đến tháng 3/1938); về hoạt động của các tổ chức quần chúng, các đảng phái.
1/5/1938: Bị địch bắt tại Sài Gòn.
24/5/1938: Bị địch buộc tội dùng căn cước giả, Tòa tiểu hình Sài Gòn kết án 2 tháng tù và 5 năm quản thúc.
26/7/1938: Làm đơn chống án. Tòa thượng thẩm Sài Gòn xử đồng chí Hà Huy Tập nâng lên thành 6 tháng tù và 5 năm quản thúc vì tội dùng căn cước giả, cộng với 2 tháng án trước là 8 tháng tù và 5 năm quản thúc.
30/1/1939: Bị kết án 5 năm tù, bị tước quyền công dân và chính trị, 10 năm không được sống ở các vùng có âm mưu lật đổ.
28/3/1939: Được tha ra khỏi Khám Lớn Sài Gòn và bị quản thúc tại quê nhà.
30/3/1940: Bị thực dân Pháp bắt đưa vào giam ở Khám Lớn Sài Gòn; 3/9/1940, bị Tòa tiểu hình Sài Gòn kết án 5 năm tù và 10 năm quản thúc.
25/3/1941: Bị buộc tội “chịu trách nhiệm tinh thần về cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ” và bị tuyên án tử hình.
28/8/1941: Thực dân Pháp đưa đồng chí Hà Huy Tập ra xử bắn tại trường bắn ở ngã tư Giếng nước, Hóc Môn (Gia Ðịnh).
Ảnh chân dung đồng chí Nguyễn Văn Cừ Ảnh: BTLSQG
Năm 1927: Tham gia tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Khoảng tháng 8/1928: Bị bắt và bị giải về Sở Mật thám Hà Nội do bị gán tội hoạt động chính trị. Sau 12 ngày bị giam giữ, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được trả tự do
1928: Thực hiện chủ trương “vô sản hóa” ở các xí nghiệp, nhà máy, hầm mỏ, với bí danh là Phùng, đồng chí ra mỏ Vàng Danh làm phu cuốc than để vừa rèn luyện, vừa thâm nhập trong phong trào công nhân, giác ngộ công nhân.
6/1929: Gia nhập Đông Dương Cộng sản Đảng và được phân công phụ trách các chi bộ ở Cẩm Phả, Cửa Ông, sau đó về hoạt động tại mỏ Mạo Khê.
Sau ngày 3/2/1930: Được cử là phái viên của Đảng tại vùng mỏ.
2/1931: Trên đường đi công tác, bị thực dân Pháp bắt, giam tại nhà tù Hải Phòng, rồi bị đưa về giam ở nhà tù Hỏa Lò; bị kết án tù khổ sai và đày đi Côn Đảo.
11/1936: Được trả tự do trở về đất liền, kèm thêm điều kiện buộc phải về sống và chịu sự quản thúc của chính quyền tại nơi cư trú.
Khoảng cuối năm 1936: Ra Hà Nội hoạt động bí mật. Tham gia khôi phục hoạt động của các cơ sở đảng, đẩy mạnh phong trào quần chúng, lập lại Thành ủy Hà Nội và lập ra “Ủy ban sáng kiến”, có vai trò như Xứ ủy lâm thời Bắc Kỳ.
9/1937: Tại Hội nghị Trung ương Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung
ương Đảng và được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
Trở ra Bắc và triệu tập Hội nghị thành lập Liên xứ uỷ Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ;
được bầu vào Ban Thường vụ.
3/1938: Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương họp tại Hóc Môn (Gia Định), đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
7/1939: Viết tác phẩm “Tự chỉ trích”
Đây là đóng góp lý luận quan trọng nhất của ông. Trong tác phẩm
này, Nguyễn Văn Cừ đã phân tích sâu sắc các nguyên tắc của tự
phê bình và phê bình trong Đảng. Ông chỉ ra sự cần thiết phải
thẳng thắn nhìn nhận những sai lầm, khuyết điểm để tăng cường sự
đoàn kết, thống nhất trong nội bộ.
11/1939: Triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 6 tại Hóc Môn (Gia Định), quyết định việc thay đổi chiến lược cách mạng và thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông Dương.
1/1940: Bị địch bắt tại Sài Gòn.
23/11/1940: Sau khi khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ, thực dân Pháp khép đồng chí vào tội đã thảo ra “Nghị quyết thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương”, “Chủ trương bạo động”, là người có trách nhiệm tinh thần trong cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ và kết án tử hình đồng chí.
28/8/1941: Đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị thực dân Pháp xử bắn tại trường bắn Ngã Ba Giồng, Bà Điểm, Hóc Môn (Gia Định).
Ảnh chân dung đồng chí Trường Chinh Ảnh: TTXVN
1927: Được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
6/1929: Tham gia thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ.
9/1929: Tổng hội sinh viên được tổ chức và ra báo Người sinh viên. Đồng chí được cử làm chủ bút tờ báo này.
1930: Được chỉ định vào Ban Tuyên truyền cổ động Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương.
11/1930 - 9/1936: Bị thực dân Pháp bắt, bị tuyên án 12 năm cầm cố, bị giam tại nhà tù Hỏa Lò, bị đày lên nhà tù Sơn La. Tháng 9/1936: được trả tự do, bị lệnh quản thúc tại quê hương.
1936-1939: Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ, đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương trong Ủy ban Mặt trận Dân chủ Bắc Kỳ.
1940: Được Ban Chấp hành Trung ương lâm thời cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng và được chỉ định làm Quyền Tổng Bí thư, thay Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã bị địch bắt.
1941: Tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
10/1942: Trực tiếp phụ trách báo “Cờ Giải phóng” - cơ quan tuyên truyền, cổ động của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
9/3/1945: Triệu tập và chủ trì Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng ra chỉ thị về “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và chủ trương Tổng khởi nghĩa.
15/3/1945: Chỉ đạo Mặt trận Việt Minh phát động Cao trào kháng Nhật, cứu nước.
Tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi" được Nhà xuất bản Sự thật xuất
bản thành sách nhân dịp kỷ niệm lần thứ hai ngày Nam Bộ kháng
chiến.
Cuốn sách tổng hợp các bài viết của Tổng Bí thư Trường Chinh đăng trên báo Sự
thật - Cơ quan ngôn luận Trung ương của Đảng từ số 70 (4/3/1947) đến số 81
(l/8/1947) đề ra các luận chứng và phát triển toàn bộ đường lối kháng chiến toàn
dân, toàn diện, trường kỳ nhất định thắng lợi của Đảng ta.
8/1945: Chủ trì Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định Tổng khởi nghĩa; chủ trì Đại hội Quốc dân tại Tân Trào tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa và bầu ra Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời). Đồng chí được cử phụ trách Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc.
Đồng chí Trường Chinh, Tổng
Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương đọc Báo cáo "Bàn về cách
mạng Việt Nam" tại Đại hội Đại biểu lần thứ II Đảng Cộng sản
Đông Dương, Tuyên Quang tháng 02/1951.
Tại Đại hội Đảng lần thứ II, đồng chí được tiếp tục bầu vào Ban
Chấp hành Trung ương và được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành
Trung ương.
Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
1953: Trưởng ban Cải cách ruộng đất của Trung ương Đảng.
1958: Được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học nhà nước; trực tiếp phụ trách văn hóa, giáo dục, khoa học; kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước.
7/1960: Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa II, đồng chí được bầu là Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Từ đó đến năm 1976, đồng chí liên tục được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa III (1964-1971); khóa IV (1971-1975); khóa V (1975-1976).
9/1960: Tại Đại hội Đảng lần thứ III, đồng chí tiếp tục được bầu là Ủy viên Bộ Chính trị, phụ trách công tác Quốc hội và công tác tư tưởng của Đảng.
7/1976: Được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa VI.
12/1976: Tại Đại hội Đảng lần thứ IV, đồng chí tiếp tục được bầu là Ủy viên Bộ Chính trị, phụ trách Trưởng Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương và Trưởng Ban Lý luận của Trung ương.
3/1982: Tại Đại hội Đảng lần thứ V, đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Nhà nước.
14/7/1986: Tại Hội nghị đặc biệt, Ban Chấp hành Trung ương đã bầu đồng chí làm Tổng Bí thư của Đảng thay đồng chí Lê Duẩn đã từ trần.
12/1986: Tại Đại hội lần thứ VI của Đảng, đồng chí được trao trách nhiệm làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Ảnh chân dung đồng chí Lê Duẩn Ảnh: TTXVN
Cuối năm 1928: Chính thức gia nhập Tân Việt Cách mạng Đảng.
Đầu năm 1929: Được giới thiệu gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
3/2/1930: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đồng chí được tiếp nhận về sinh hoạt tại Đảng bộ thành phố Hà Nội.
1931: Ủy viên Ban Tuyên huấn Xứ ủy Bắc Kỳ, chịu trách nhiệm lãnh đạo và tổ chức cuộc đấu tranh tại các xí nghiệp sản xuất công nghiệp và các khu lao động ở Hải Phòng; cũng trong năm đó, đồng chí bị bắt tại Hải Phòng, bị kết án 20 năm tù và bị giam ở các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La và Côn Đảo.
1936: Được trả tự do, đồng chí từ Côn Đảo về Quảng Trị để tiếp tục hoạt động cách mạng ở Trung Kỳ.
1937: Được ủy quyền làm Bí thư Xứ ủy lâm thời.
3/1938: Xứ ủy Trung Kỳ chính thức được lập lại, đồng chí được bầu làm Bí thư.
1939: Được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Cuối năm 1939 cùng với đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư của Đảng chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông Dương.
1940: Bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn, bị kết án 10 năm tù và đày đi Côn Đảo lần thứ hai. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đồng chí được Đảng và Chính phủ đón về đất liền.
1946: Ra Hà Nội, làm việc bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần cùng Trung ương Đảng chuẩn bị cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
1951: Tại Đại hội Đảng lần thứ II, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị.
1946-1954: Với cương vị Bí thư Xứ ủy, rồi Bí thư Trung ương Cục miền Nam, đồng chí lãnh đạo Đảng bộ miền Nam tổ chức cuộc kháng chiến ở Nam Bộ.
1954-1957: Ở lại miền Nam lãnh đạo phong trào cách mạng.
1957: Trung ương cử đồng chí lãnh đạo công việc chung của Đảng bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976) và lần thứ V (3/1982) của Đảng, đồng chí được tiếp tục bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, được bầu giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; từ năm 1978, đồng chí là Bí thư Quân ủy Trung ương.
Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam
Ảnh chân dung đồng chí Nguyễn Văn Linh Ảnh: TTXVN
1929: Tham gia Học sinh đoàn do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lãnh đạo.
1/5/1930: Khi rải truyền đơn chống đế quốc, đồng chí bị địch bắt, kết án tù chung thân và đày đi Côn Đảo.
1936: Được trả tự do, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, tham gia hoạt động trong công nhân lao động ở Hải Phòng và Hà Nội. Đồng chí đã xây dựng cơ sở đảng, thành lập nhiều chi bộ và Thành ủy lâm thời Hải Phòng.
1939: Đảng điều động đồng chí vào công tác ở Sài Gòn, tham gia Ban Chấp hành Đảng
bộ Thành phố.
Cuối năm 1939: Được phân công tham gia lập lại Xứ ủy Trung kỳ.
1941: Bị địch bắt ở Vinh, đưa về Sài Gòn xử án 5 năm tù và bị đày ra Côn Đảo lần thứ hai.
1945: Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí được đón về Nam Bộ hoạt động ở miền Tây, sau đó lên Sài Gòn-Chợ Lớn trực tiếp lãnh đạo kháng chiến với các chức vụ Bí thư Thành ủy, Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn-Gia Định.
1947: Được bầu vào Xứ ủy Nam Bộ; năm 1949, đồng chí tham gia Thường vụ Xứ ủy Nam
Bộ.
1957-1960: Quyền Bí thư Xứ ủy Nam Bộ.
1960: Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, được Trung ương chỉ định làm Bí thư Trung ương Cục, và sau đó là Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam.
1976: Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
12/1976: Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, đồng chí được tiếp tục bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, được phân công giữ các chức vụ Trưởng ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa của Trung ương, Trưởng Ban Dân vận Mặt trận Trung ương, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam đến năm 1980. Sau đó, được phân công theo dõi thực hiện Nghị quyết của Đảng và Chính phủ ở các tỉnh miền Nam.
12/1981: Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông đã "bật đèn xanh" cho nhiều doanh nghiệp "xé rào" cơ chế bao cấp để phát
triển sản xuất. Đây là những bước đột phá đầu tiên trên con đường xóa bỏ cơ chế
quản lý cũ.
3/1982: Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, đồng chí được tiếp tục bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
6/1985: Tại Hội nghị Trung ương 8, đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị, làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
6/1986: Được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, và được phân công làm Thường trực Ban Bí thư.
12/1986: Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đồng chí được tiếp tục bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị, được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
1987: Kiêm chức Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương.
6/1987: Được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa VIII.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh chứng kiến cảnh lao động sôi nổi trên công trường thủy điện Hòa Bình tại cao trình 123 bờ bên phải, ngày 3/5/1987.
6/1991: Tại Đại hội Đảng lần thứ VII, đồng chí được trao trách nhiệm làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng đến năm 1998.
Ngày 25/6/1992, đồng chí Nguyễn Văn Linh được trao tặng Huân chương Sao Vàng.
Ảnh chân dung đồng chí Đỗ Mười Ảnh: TTXVN
1936: Tham gia phong trào Mặt trận Bình dân.
1937: Tham gia Tổ chức Ái hữu thợ mỏ Hòn Gai.
1938: Đồng chí về quê hoạt động, vào Công hội, vận động phong trào ủng hộ Liên Xô.
6/1939: Được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
1941: Bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù, giam tại Nhà tù Hà Đông và Nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội.
1945: Vượt ngục Hỏa Lò, liên lạc với Đảng và tiếp tục hoạt động cách mạng, được phân công về tham gia Ban khởi nghĩa Tỉnh ủy Hà Đông, phụ trách phong trào cách mạng huyện Ứng Hòa và Mỹ Đức, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Hà Đông.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945: Làm Bí thư Tỉnh ủy Hà Đông.
Đầu năm 1946: Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam. Cuối năm 1946, làm Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến tỉnh Nam Định.
1947-1949: Khu ủy viên Khu III, Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình, Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình.
1950: Phó Bí thư Liên Khu ủy, kiêm Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu III, Chính ủy kiêm Tư lệnh Liên khu III.
1951-1954: Bí thư Khu ủy khu Tả Ngạn Sông Hồng, kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính và Chính ủy Quân khu Tả Ngạn Sông Hồng.
1955: Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Quân chính thành phố Hải Phòng.
3/1955: Được bầu bổ sung Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
1956: Thứ trưởng Bộ Thương nghiệp.
1958: Bộ trưởng Bộ Nội thương.
9/1960: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội thương.
1967-1968: Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước, Trưởng phái đoàn Thanh tra Chính phủ.
1969-1973: Phó Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước.
1973: Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Phó Chủ tịch Hội đồng chi viện tiền tuyến Trung ương và chống phong tỏa Cảng Hải Phòng.
12/1976: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí được bầu lại làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ, phụ trách các khối: Xây dựng cơ bản, Công nghiệp, Vật tư, Cải tạo công thương nghiệp và phân phối lưu thông.
3/1982: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, đồng chí tiếp tục được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào Bộ Chính trị, giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ, phụ trách các khối: Xây dựng cơ bản, Công nghiệp, Vật tư.
12/1986: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đồng chí tiếp tục được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào Bộ Chính trị, được phân công làm Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng.
6/1988: Đồng chí được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ).
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, đồng chí tiếp tục được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào Bộ Chính trị và bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Bí thư Quân ủy Trung ương.
Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, ông đã kiên trì, linh hoạt trong việc mở rộng quan hệ đối ngoại. Ông đã cùng với các nhà lãnh đạo khác góp phần quan trọng vào việc bình thường hóa và mở rộng quan hệ với các nước, đặc biệt là Trung Quốc, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đất nước.
6/1996: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, đồng chí tiếp tục được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào Bộ Chính trị và được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Bí thư Quân ủy Trung ương.
12/1997: Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư khóa VIII, đồng chí xin thôi tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thôi giữ chức Tổng Bí thư; được Ban Chấp hành Trung ương Đảng trao trách nhiệm làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng đến năm 2000.
Ảnh chân dung đồng chí Lê Khả Phiêu Ảnh: TTXVN
1947-1949: Dạy bình dân học vụ ở xã. Tháng 6/1949, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, phụ trách công tác tuyên truyền, làm Chánh Văn phòng Chi bộ xã.
5/1950-8/1954: Nhập ngũ, làm chiến sĩ, rồi đảm nhiệm các chức vụ Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng, Chính trị viên Phó Đại đội, Chính trị viên Đại đội, Trung đoàn 66, Đại đoàn 304.
9/1954-3/1955: Học bổ túc quân chính trung cấp khóa I.
3/1955-3/1958: Lần lượt đảm nhiệm các chức vụ Trưởng Tiểu ban Tổ chức Trung đoàn, Chính trị viên Tiểu đoàn; Phó Chủ nhiệm rồi Chủ nhiệm chính trị Trung đoàn 66, Sư đoàn 304.
4/1958: Học viên Trường Chính trị trung cao.
6/1961-1966: Lần lượt giữ các chức vụ Phó Ban Cán bộ rồi Trưởng Ban Tổ chức, Phòng Chính trị Sư đoàn 304; sau đó làm Phó Chính ủy rồi Chính ủy Trung đoàn 9, Sư đoàn 304, Quân khu Hữu Ngạn, Đảng ủy viên Sư đoàn.
7/1967: Vào chiến trường Trị Thiên chiến đấu, làm Chính ủy Trung đoàn 9.
1/1968: Kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 9.
1970: Trưởng Phòng Tổ chức Quân khu Trị Thiên.
10/1971-2/1974: Phó Chủ nhiệm chính trị Quân khu Trị Thiên.
3/1974: Chủ nhiệm chính trị Quân khu Trị Thiên (sau là Quân đoàn 2), Đảng ủy viên Quân đoàn.
2/1978: Chủ nhiệm chính trị rồi Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm chính trị Quân khu 9.
8/1980: Phó Tư lệnh về chính trị kiêm Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 9, được bầu vào Thường vụ rồi Phó Bí thư Đảng ủy Quân khu.
3/1983: Chủ nhiệm chính trị Quân khu 9.
4/1984: Chủ nhiệm chính trị Bộ Tư lệnh 719, đồng chí được thăng quân hàm Thiếu tướng.
1986: Phó Tư lệnh về chính trị kiêm Chủ nhiệm chính trị Bộ Tư lệnh 719, làm Ủy viên rồi Phó Bí thư Ban cán sự Bộ Tư lệnh 719.
6/1988: Được thăng quân hàm Trung tướng.
8/1988: Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (phụ trách khối tổ chức, cán bộ, bảo vệ).
6/1991: Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phân công làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương).
6/1991: Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba, khóa VII, đồng chí được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng.
6/1992: Được thăng quân hàm Thượng tướng.
1/1994: Tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị.
6/1996: Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, đồng chí tiếp tục được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, được cử tham gia Thường vụ Bộ Chính trị, phân công làm Thường trực Bộ Chính trị kiêm Trưởng Ban Bảo vệ Chính trị nội bộ Trung ương.
12/1997: Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư, khoá VIII, đồng chí
được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư
Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương).
Đồng chí đã cùng Bộ Chính trị và Chính phủ đề ra những chủ trương, giải pháp kịp
thời, mạnh mẽ để hạn chế tối đa tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng
tài chính - tiền tệ khu vực châu Á (1997), giữ vững ổn định kinh tế
vĩ mô và duy trì tốc độ tăng trưởng.
Nghị quyết số 10-NQ/TW (2/2/1999) tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
lần thứ 6 (lần 2) khóa VIII về "Một số vấn đề cơ bản và cấp bách về xây dựng
Đảng trong giai đoạn hiện nay".
Nghị quyết được xem là một bước ngoặt trong công tác chỉnh đốn Đảng, thực hiện
cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tiến hành tự phê bình và phê bình với
mục đích làm trong sạch Đảng, nâng cao sức chiến đấu, vai trò và thanh danh
Đảng. Ông cũng là người kiên quyết phê phán những biểu hiện quan liêu, hách
dịch, xa dân và khẳng định rằng: "Sinh hoạt Đảng không phải sinh hoạt câu lạc
bộ. Tắm gội phải từ trên đầu xuống chứ không phải từ ngang thắt lưng".
Ảnh chân dung đồng chí Nông Đức Mạnh Ảnh: TTXVN
1958-1961: Học Trường Trung cấp Nông lâm Trung ương Hà Nội.
1962-1963: Công nhân lâm nghiệp, kỹ thuật viên điều tra rừng Ty Lâm nghiệp Bắc Kạn.
5/7/1963: Gia nhập Đảng Lao động Việt Nam.
1963-1965: Đội phó Đội khai thác gỗ Bạch Thông.
1966-1971: Sinh viên Học viện Lâm nghiệp Leningrad (Liên Xô).
1972-1973: Phó ban Thanh tra Ty Lâm nghiệp tỉnh Bắc Thái.
1973-1974: Giám đốc Lâm trường Phú Lương, tỉnh Bắc Thái.
1974-1976: Học Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc.
1976-1980: Tỉnh ủy viên, Phó Ty Lâm nghiệp tỉnh Bắc Thái kiêm Chủ nhiệm Công ty Xây dựng lâm nghiệp rồi Trưởng Ty Lâm nghiệp tỉnh Bắc Thái.
1980-1983: Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Thái.
1984 - 10/1986: Phó Bí thư, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Thái.
11/1986 - 2/1989: Bí thư Tỉnh ủy Bắc Thái.
12/1986: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đồng chí được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
3/1989: Tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa VI, đồng chí được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
8/1989: Trưởng ban Dân tộc Trung ương.
11/1989: Được bầu bổ sung làm Đại biểu Quốc hội khóa VIII và được bầu làm Phó
Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội.
6/1991: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, đồng chí được tiếp tục bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.
9/1992: Được bầu làm Chủ tịch Quốc hội khóa IX.
1/1998: Được phân công làm Thường vụ Bộ Chính trị.
4/2001: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị và bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đại biểu Quốc hội khóa XI (5/2002).
4/2006: Tại Đại hội Đảng lần thứ X, đồng chí được tiếp tục bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và được tiếp tục bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (đến tháng 1/2011). Đại biểu Quốc hội khóa XII (đến tháng 5/2011).
Phát động và chỉ đạo Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Cuộc vận động đã trở thành một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, góp phần giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Trong thời kỳ ông lãnh đạo (2001-2011), Việt Nam đã đạt được những bước tiến lớn trong hội nhập quốc tế. Sự kiện nổi bật nhất là việc Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007. Điều này đã mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Ảnh chân dung đồng chí Nguyễn Phú Trọng Ảnh: TTXVN
12/1967: Cán bộ Phòng Tư liệu Tạp chí Học tập (nay là Tạp chí Cộng sản); ngày 19/12/1967, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
8/1968-8/1973: Cán bộ biên tập Tạp chí Cộng sản; đi thực tế ở huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội); làm Bí thư Chi đoàn Cơ quan Tạp chí Cộng sản.
9/1973-4/1976: Nghiên cứu sinh Khoa Kinh tế - Chính trị tại Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
5/1976-8/1980: Cán bộ biên tập Ban Xây dựng Đảng, Tạp chí Cộng sản, Phó Bí thư Chi bộ.
9/1980-8/1981: Học Nga văn tại Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc.
9/1981-7/1983: Thực tập sinh và bảo vệ luận án Phó Tiến sĩ (nay là Tiến sĩ) Khoa học lịch sử (chuyên ngành Xây dựng Đảng) ở Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Liên Xô, trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.
8/1983-8/1987: Phó Ban Xây dựng Đảng, Tạp chí Cộng sản.
9/1987-2/1989: Trưởng Ban Xây dựng Đảng; Phó Bí thư Đảng ủy (7/1985-12/1988), Bí thư Đảng ủy cơ quan Tạp chí Cộng sản (12/1988-12/1991).
3/1989-4/1990: Ủy viên Ban Biên tập Tạp chí Cộng sản.
5/1990-7/1991: Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản.
8/1991-8/1996: Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (tháng 1/1994), đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa VII, VIII, IX, X, XI, XII, XIII.
8/1996-2/1998: Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội, kiêm Trưởng Ban cán sự đại học và trực tiếp phụ trách Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội. Tại Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 12/1997), đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị. Đồng chí là Ủy viên Bộ Chính trị các khóa VIII, IX, X, XI, XII, XIII.
2/1998-1/2000: Phụ trách công tác Tư tưởng - Văn hóa và Khoa giáo của Đảng.
3/1998-11/2006: Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, phụ trách công tác lý luận của Đảng (11/2001-8/2006).
8/1999-4/2001: Tham gia Thường trực Bộ Chính trị.
1/2000-6/2006: Bí thư Thành ủy Hà Nội các khóa XII, XIII, XIV.
5/2002-19/7/2024: Đại biểu Quốc hội các khóa XI, XII, XIII, XIV, XV.
6/2006-7/2011: Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, XII, Bí thư Đảng đoàn Quốc hội, Ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh.
1/2011-19/7/2024: Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa XI, XII, XIII, Bí thư Quân ủy Trung ương.
2/2013-19/7/2024: Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Đồng chí đã kiên quyết, kiên trì lãnh đạo cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với phương châm "không có vùng cấm, không có ngoại lệ". Ông đã khởi xướng và trực tiếp chỉ đạo nhiều vụ án lớn, phức tạp, xử lý nghiêm minh nhiều cán bộ cấp cao, làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Cuộc chiến này được ví như "lò nóng" và đã trở thành "một phong trào, một xu thế không thể đảo ngược".
8/2016-19/7/2024: Tham gia Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung
ương nhiệm kỳ 2015-2020 và 2020-2025
10/2018-4/2021: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 2016-2021; Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng
và An ninh.
Đồng chí cũng là người kiên định với chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, đưa đất nước hội nhập sâu rộng vào thế giới. Nổi bật là việc nâng tầm quan hệ với nhiều đối tác lớn, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
4/2021-19/7/2024: Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Quân ủy Trung ương, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Ra mắt sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” bằng 7 ngoại ngữ.
Đồng chí đã có nhiều bài viết, phát biểu quan trọng, làm sáng tỏ và phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những tác phẩm của ông đã góp phần củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng, định hướng cho sự phát triển của đất nước trong tình hình mới.
18/7/2024: Được trao tặng Huân chương Sao Vàng.
Ngay sau khi Bộ Chính trị có quyết định trao Huân chương Sao Vàng tặng
đồng chí Nguyễn Phú Trọng - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam - Chủ tịch nước Tô Lâm đã ký quyết định tặng thưởng
Huân chương Sao Vàng cho Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vì đã có nhiều
công lao to lớn, đặc biệt xuất sắc cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân
tộc.
Ảnh chân dung đồng chí Tô Lâm Ảnh: TTXVN
1974-1979: Học viên Đại học An ninh nhân dân (nay là Học viện An ninh nhân dân).
1979-1988: Cán bộ, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an).
1988-1990: Phó Trưởng phòng, Tổng cục An ninh, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an).
1990-1993: Trưởng phòng, Tổng cục An ninh, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an).
1993-1997: Phó Cục trưởng, Tổng cục An ninh, Bộ Công an.
1997-2006: Cục trưởng, Tổng cục An ninh, Bộ Công an.
6/2006-12/2009: Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an; tháng 4/2007 được thăng cấp bậc hàm Thiếu tướng.
12/2009: Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục An ninh I, Bộ Công an.
2/2010-7/2010: Bí thư Đảng ủy, Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh I, Ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương; tháng 7/2010 được thăng cấp bậc hàm Trung tướng.
8/2010-1/2011: Ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương, Thứ trưởng Bộ Công an.
1/2011-7/2011: Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, Ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương, Thứ trưởng Bộ Công an.
8/2011-1/2016: Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương, Thứ trưởng Bộ Công an; tháng 9/2014 được thăng cấp bậc hàm Thượng tướng.
1/2016-3/2016: Ủy viên Bộ Chính trị khóa XII, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương, Thứ trưởng Bộ Công an.
4/2016 đến nay: Ủy viên Bộ Chính trị (khóa XII, XIII); Ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh; Ủy viên Ban Cán sự Đảng Chính phủ; Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ trưởng Bộ Công an; đại biểu Quốc hội khóa XIV, XV; Phó Trưởng ban Ban Chỉ đạo Trung ương phòng, chống tham nhũng (nay là Ban Chỉ đạo Trung ương phòng, chống tham nhũng, tiêu cực); giai đoạn 7/2016-10/2017 giữ chức vụ Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên; tháng 01/2019 được thăng cấp bậc hàm Đại tướng.
Đề án “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức
bộ máy của Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả”.
Chỉ đạo sắp xếp lại tổ chức bộ máy của Bộ Công
an theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Đặc biệt, việc điều động hàng
chục nghìn công an chính quy về công tác tại cấp xã đã giúp lực
lượng công an gần dân hơn, nắm bắt tình hình và giải quyết các
vấn đề an ninh, trật tự từ cơ sở.
Cấp thẻ căn cước điện tử cho công dân.
Chỉ đạo thực hiện những cải cách đột phá về thủ tục hành chính,
đặc biệt là việc triển khai Căn cước công dân gắn chip và định
danh điện tử (VNeID). Điều này đã tạo ra nhiều tiện ích cho
người dân và góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số quốc gia.
22/5/2024: Tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 2021-2026.
Nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế.
Đồng chí đã thực hiện nhiều hoạt động đối ngoại quan trọng, khẳng định chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ. Những chuyến thăm, tiếp xúc cấp cao đã góp phần củng cố quan hệ với các quốc gia, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
3/8/2024: Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, được bầu giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII.
3/8/2024 đến 21/10/2024: Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
21/10/2024 đến nay: Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII.
Sắp xếp, tinh gọn bộ máy, xây dựng chính quyền 2 cấp
Nhấn mạnh vai trò của kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế
Hành trình ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC
Mời bạn tới sự kiện ngày 28/8 để trải nghiệm triển lãm trực tuyến